image banner
Năm 2023 đẩy mạnh chỉnh trang, hiện đại hóa đô thị, xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu - Thực hiện chuyển đổi số
Đền Phú Xá
Lượt xem: 86
Đền Phú Xá được xây dựng lại từ thời Tự Đức toạ lạc trên một thửa đất cao dáo Đền quay về hướng Đông, hướng ra cửa sông Bạch Đằng.


Đền Phú Xá phường Đông Hải 1 là nơi gắn liền với Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 một chiến công huyền thoại của lịch sử dân tộc. Người Việt Nam qua nhiều triều đại đều tự hào về đại thắng Bạch Đằng Giang vẻ vang của tổ tiên và ghi nhận là chiến công đỉnh cao nhất trong 3 lần đọ sức của quân dân Đại Việt đối với quân xâm lược Mông Nguyên thế kỷ 13.

Lịch sử Việt Nam và thế giới ghi chép lại vào thế kỷ 13, quân Nguyên là một đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới nhiều lần dẫn quân chinh chiến xâm lược nhiều quốc gia ở Châu Á và Châu Âu, từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia Hắc Hải. Chúng đi đến đâu gieo chết chóc, tang thương đến đó kéo thế giới vào những cuộc chiến tranh tang thương khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử thế giới lúc bấy giờ, trở thành nỗi khiếp sợ của thế giới.

Vốn có âm mưu xâm chiếm Đại Việt, trong 2 năm 1258 và 1285 chúng đã điều động hàng chục vạn quân tinh nhuệ xâm lược Đại Việt. Nhưng với ý trí quyết tâm giữ yên bờ cõi của đất nước quân dân nhà Trần đều đẩy lùi vó ngựa xâm lược của quân Nguyên với những chiến thắng Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp...

Không từ dã âm mưu xâm lược cuối năm 1287 Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản để tập trung lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ ba lần này ngoài bộ binh và kỵ binh, chúng còn điều động một lực lượng thuỷ binh với hơn 600 thuyền chiến do Trấn Nam Vương Thoát Hoan làm tổng chỉ huy chia làm 03 mũi hành quân ồ ạt tiến vào nước ta. Trước sự hung hãn, tàn ác của quân thù, chúng đi đến đâu nhân dân ta bị đầu rơi, máu chảy, làng mạc bị đốt phá đến đó.

Trước thế giặc mạnh, với lòng yêu nước căm thù giặc và tinh thần đoàn kết, ý trí quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lược của Vua tôi nhà Trần thể hiện tại hội nghị Diên Hồng. Cùng sự chỉ đạo tài tình của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổng chỉ huy thống lĩnh quân đội với câu nói làm an lòng Vua Trần “Nếu bệ hạ muốn hàng. Hãy chém đầu thần trước” và bài “Hịch tướng sĩ” Hưng Đạo Vương đã khích lệ, động viên tinh thần chiến đấu của tướng sĩ, đặc biệt là hành động các tướng sỹ đều thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát” tức là “giết giặc Nguyên” đã thể hiện tinh thần quyết tâm chống giặc giữ yên bờ cõi của quân dân nhà Trần.

Lúc đầu để xây dựng lực lượng, chuẩn bị kế sách và lương thực quân ta đánh cầm cự, cô lập, giữ chân địch.

Đầu tháng 02 năm 1288 trên đường kéo quân vào nước ta tại vùng biển Đông Bắc thủy binh của Ô Mã Nhi bị quân ta chặn đánh tại Ngọc Sơn (Quảng Ninh). Sau cuộc hội quân thủy bộ tại Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố gắng xây dựng vùng Vạn Kiếp và Thăng Long thành căn cứ quân sự, chúng triệt hạ nhiều điền trang, thái ấp, tàn phá nhân dân, uy hiếp triều đình. Đoán trước được âm mưu của quân Nguyên, Trần Hưng Đạo cho thực hiện chính sách “Vườn không nhà trống” tại kinh thành Thăng Long nên khi quân Nguyên kéo quân vào Thăng Long gặp khó khăn về nguồn lương thực tại chỗ, mặt khác đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị Phó tướng Trần Khánh Dư bố trí mai phục đánh tan tại Vân Đồn. Khiến quân Nguyên lâm vào tình trạng khốn cùng phải quyết định chia làm hai đường thủy bộ rút quân về nước.

Nắm bắt ý đồ rút quân và phán đoán chính xác đường rút quân của địch, Trần Quốc Tuấn tiến quân từ Vạn Kiếp đến cửa Sông Bạch Đằng chuẩn bị đánh chặn địch. Trên đường hành quân được sự phối hợp của các đội dân binh địa phương chủ động phục kích làm tiêu hao một phần sinh lực địch.

Thời cơ đến, Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật thủy triều của sông Bạch Đằng và kế thừa cách đánh của Ngô Quyền và Lê Hoàn trong kháng chiến chống quân Nam hán (938) và quân Tống (981). Trần Hưng Đạo đã đưa ra thế trận cọc ngầm dưới lòng sông chuẩn bị một trận địa cọc mai phục tại cửa sông Bạch Đằng. Các loại gỗ lim, gỗ táu được nhân dân và tướng sỹ đốn trên rừng kéo về bờ sông, đẽo nhọn đầu bịt sắt cắm xuống lòng sông ở các cửa dẫn ra biển như sông Rút, sông Chanh, sông Kênh, làm thành những bãi chông ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước. Sử dụng bờ lau, bãi sậy, núi đá ven sông làm nơi mai phục.

Mờ sáng ngày 09 tháng 4, khi nước thuỷ triều lên ngập các bãi cọc quân ta cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến, giả thua chạy nhử các thuyền chiến của địch tiến sâu vào bãi cọc. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra nghinh chiến, các tướng Phàn Tiếp, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi các chiến thuyền của quân Nguyên đã vào sâu bên trong các nhánh của sông Bạch Đằng. Trong lúc này thủy quân của ta từ các ngả Hải Đông - Vân Trà, Điền Công, Gia Đước, sông Thái, sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng với hàng trăm chiến thuyền cùng quân lính các lộ dựa vào Ghềnh Cốc tạo thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông. Cùng lúc đó quân ta từ Tràng Kênh với cung tên, hỏa lực đánh áp từ phía sau. Địch bị bất ngờ quay thuyền tháo chạy ra hướng của sông lúc này nước thủy triều xuống trận địa cọc nhô lên khỏi mặt nước, thuyền địch đâm mạnh vào cọc bị vỡ, mắc cạn, quân giặc phần bị tiêu diệt, phần bị bắt sống, tướng Ô Mã Nhi bị bắt sống tại trận. Trong lúc thủy chiến đang diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền của hai vua Trần đóng ở vùng Hiệp Môn (Hải Dương) bên bờ sông Kinh Thầy cũng tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên càng lúng túng và tổn thất nặng nề, nhiều thuyền chiến của quân Nguyên bị cháy rụi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi lại "nước sông do vậy đỏ ngầu cả".  Một số cánh quân Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông tìm đường trốn thoát nhưng đều bị phục kích chặn đánh kịch liệt. Trận Bạch Đằng lịch sử kết thúc, quân ta thắng lợi hoàn toàn.

Lịch sử còn ghi lại khi chuẩn bị cho cuộc đại chiến trên sông Bạch Đằng lần thứ ba. Trần Hưng Đạo đã lấy làng Phú Lương xưa nay là Tổ dân phố Phú Xá làm nơi cất giữ kho lương thảo phục vụ chiến đấu. Nhân dân địa phương với tinh thần yêu nước căm thù giặc, đặc biệt là người con dâu họ Phạm làng Phú Lương – Bà Bùi Thị Từ Nhiên với tinh thần yêu nước nồng nàn đã tự mình đem thóc gạo, vận động dân làng lập kho lương thảo giúp tướng sĩ Nhà Trần. Do tướng sĩ phải chiến đấu trên sông nước nên việc mang theo lương thảo gặp khó khăn nên bà Bùi Thị Từ Nhiên cùng hương binh đã nghĩ cách làm bánh đa tráng bằng bột chín để quân sỹ mang theo khi chiến đấu, khi đói không cần nướng, chỉ nhúng vào nước là ăn được và đây là món lương khô góp phần vào Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 chống giặc Mông Nguyên. Khi trận Bạch Đằng đại thắng Đại tướng quân Trần Hưng Đạo cũng đã chọn nơi đây là nơi mở hội khao thưởng quân sĩ trước khi kéo quân về Vạn Kiếp. Để ghi nhớ công sức giúp quân đội đánh thắng giặc Nguyên, trước khi rút quân về Vạn Kiếp Hưng Đạo Vương đã cho phép nhân dân được lập Đền thờ phụng Ngài khi qua đời và phong tặng cho Bà Bùi Thị Từ Nhiên là Nữ tướng hậu cần. 

Đức Thánh Trần Hưng Đạo sinh năm 1223 mất năm 1300 tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước Hưng Đạo Đại Vương. Quê làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ngài là nhà thiên tài quân sự, nhà chính trị kiệt xuất, anh hùng dân tộc. Dưới sự chỉ huy tài tình của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Một vị Thánh nhân có tài chí xuất chúng, ý chí quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược, luôn mang trong mình một lòng yêu nước nồng nàn, bằng tài năng và trí tuệ, văn võ song toàn, giữa sách lược với chiến lược đạt tới một trình độ quân sự uyên bác, giữa ý chí với lực lượng. Là người có đạo đức trong sáng luôn nêu cao quyết tâm giữ cho bằng được tình đoàn kết vì nghĩa lớn, góp phần đoàn kết toàn dân chống lại kẻ thù. Trần Hưng Đạo đã làm nên những chiến công hiển hách cùng quân dân Đại Việt đập tan hoàn toàn âm mưu xâm lược của giặc Mông Nguyên bảo vệ độc lập dân tộc. Ngoài ra Ngài còn để lại cho hậu thế cả một sự nghiệp văn chương đồ sộ với những tác phẩm truyền đời như: “Hịch tướng sĩ”, “Binh thư yếu lược” và tác phẩm “ Vạn Kiếp tông bí truyền thư” ... 

Tháng Sáu (âm lịch) năm Mậu Tý (1300), Ngài lâm bệnh. Trước khi qua đời ông đă dặn lại vua Trần "Khoan thư sức dân là kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước". Ngày 20 tháng Tám (âm lịch) năm ấy Ngài đã Hóa Thánh. Được Vua Trần tấn phong: Thái Sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương. Nhân dân tôn Ngài là “Trần Triều Hiển Thánh” và lập đền thờ trang nghiêm, tố hảo ở rất nhiều nơi. Để tưởng nhớ công đức của Đức Thánh Trần sau khi ngài mất dân làng Phú Lương đã lập đền thờ. Từ đó việc phụng thờ Đức Thánh Trần, cùng toàn gia nhà Trần và Nữ tướng Bùi Thị Từ Nhiên được nhân dân địa phương gìn giữ từ hàng trăm năm nay.

  Phường Đông Hải 1 vinh dự là nơi có 2 dấu tích của chiến trận Bạch Đằng năm xưa đó là: Đền Phú Xá là nơi lưu giữ lương thảo và Chùa Vẽ là nơi kẻ vẽ bản đồ, bàn luận kế sách của quân sỹ nhà Trần.

  Đền Phú Xá được xây dựng lại từ thời Tự Đức toạ lạc trên một thửa đất cao dáo Đền quay về hướng Đông, hướng ra cửa sông Bạch Đằng. Ban đầu là một ngôi đền nhỏ bằng tranh tre, trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo ngày nay đã trở thành một công trình bề thế. Bố trí theo kiểu nội công ngoại quốc gồm 5 gian tiền đường, nhà thiêu hương, giải vũ, nhà đệ nhị và hậu cung. Với chất liệu bằng gỗ, hệ thống trạm khắc, đắp vẽ hoa văn nghệ thuật tinh xảo, nhuần nhuyễn mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Đền còn lưu giữ được nhiều tượng pháp, cổ vật, đồ gốm có giá trị cao về mỹ thuật và nghệ thuật điêu khắc có niên đại thế kỷ 17, 18, 19 góp phần tạo nên giá trị của di tích.

Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc ngôi Đền là căn cứ của các đồng chí hoạt động cách mạng, xây dựng lực lượng và tuyên truyền phát động đấu tranh. Là nơi cất giữ vũ khí, khí tài đạn dược, quân trang để trung chuyển cho chiến trường Miền Nam.

Hàng năm, cứ vào ngày 20 tháng 8 và ngày 05 tháng 03 âm lịch. Đảng bộ, Chính quyền phường Đông Hải 1, Tiểu ban quản lý di tích và nhân dân địa phương lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống để ôn lại Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 1288, dâng hương tưởng niệm công lao to lớn của Đức Thánh Trần và Nữ tướng quân lương Bùi Thị Từ Nhiên với các hoạt động tế lễ trang nghiêm, trọng thể và các hoạt động tín ngưỡng dân gian mang đậm giá trị văn hóa như: hát văn thờ, diễn xướng chầu văn, hầu Đức Thánh Trần, hát chèo và các trò chơi dân gian thu hút đông đảo nhân dân, du khách thập phương về dâng hương, thăm quan chiêm bái nguyện cầu cho quốc thái dân an, dân khang vật thịnh.

  Với ý nghĩa to lớn trong giáo dục truyền thống và lưu giữ những nét văn hoá nghệ thuật kiến trúc đặc sắc Đền Phú Xá đã được Bộ Văn hóa Thông tin nay là Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia theo Quyết định số 1288 – VH/QĐ ngày 16/11/1988. Là một trong “ Tứ linh từ” linh thiêng của huyện cổ An Dương xưa. Hiện nay, là một trong 7 di tích trên địa bàn phường tạo thành một quần thể di tích có giá trị to lớn trong đời sống tâm linh và là kho tàng lịch sử sống động trong đời sống tinh thần, văn hoá của nhân dân. 



image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Tin mới