Đền Phú Xá phường Đông Hải 1 là
nơi gắn liền với Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 một chiến công huyền thoại của
lịch sử dân tộc. Người Việt Nam qua nhiều triều đại đều tự hào về đại thắng Bạch
Đằng Giang vẻ vang của tổ tiên và ghi nhận là chiến công đỉnh cao nhất trong 3
lần đọ sức của quân dân Đại Việt đối với quân xâm lược Mông Nguyên thế kỷ 13.
Lịch sử Việt Nam
và thế giới ghi chép lại vào thế kỷ 13, quân Nguyên là một đội quân xâm lược
hùng mạnh nhất thế giới nhiều lần dẫn quân chinh chiến xâm lược nhiều quốc gia ở
Châu Á và Châu Âu, từ bờ Thái Bình Dương đến bên kia Hắc Hải. Chúng đi đến đâu
gieo chết chóc, tang thương đến đó kéo thế giới vào những cuộc chiến tranh tang
thương khủng khiếp chưa từng có trong lịch sử thế giới lúc bấy giờ, trở thành nỗi
khiếp sợ của thế giới.
Vốn có âm mưu xâm chiếm Đại
Việt, trong 2 năm 1258 và 1285 chúng đã điều động hàng chục vạn quân tinh nhuệ
xâm lược Đại Việt. Nhưng với ý trí quyết tâm giữ yên
bờ cõi của đất nước quân dân nhà Trần đều đẩy lùi vó ngựa xâm lược của quân
Nguyên với những chiến thắng Đông Bộ Đầu, Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp...
Không từ dã âm mưu xâm lược cuối năm 1287 Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế
hoạch đánh Nhật Bản để tập trung lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ ba lần này
ngoài bộ binh và kỵ binh, chúng còn điều động một lực lượng thuỷ binh với hơn
600 thuyền chiến do Trấn Nam Vương Thoát Hoan làm tổng chỉ huy chia làm 03 mũi
hành quân ồ ạt tiến vào nước ta. Trước sự hung hãn, tàn ác của quân thù, chúng
đi đến đâu nhân dân ta bị đầu rơi, máu chảy, làng mạc bị đốt phá đến đó.
Trước thế giặc
mạnh, với lòng yêu nước căm thù giặc và tinh thần đoàn kết, ý trí quyết tâm
đánh đuổi giặc xâm lược của Vua tôi nhà Trần thể hiện tại hội nghị Diên Hồng.
Cùng sự chỉ đạo tài tình của Quốc Công Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổng
chỉ huy thống lĩnh quân đội với câu nói làm an lòng Vua Trần “Nếu
bệ hạ muốn hàng. Hãy chém đầu thần trước” và bài “Hịch
tướng sĩ” Hưng Đạo Vương đã khích lệ, động viên tinh thần chiến đấu
của tướng sĩ, đặc biệt là hành động các tướng sỹ đều thích vào cánh tay hai chữ
“Sát
Thát” tức là “giết giặc Nguyên”
đã thể hiện tinh thần quyết tâm chống giặc giữ yên bờ cõi của quân dân nhà Trần.
Lúc đầu để xây dựng lực lượng,
chuẩn bị kế sách và lương thực quân ta đánh cầm cự, cô lập, giữ chân địch.
Đầu tháng 02
năm 1288 trên đường kéo quân vào nước ta tại vùng biển Đông Bắc thủy binh của Ô
Mã Nhi bị quân ta chặn đánh tại Ngọc Sơn (Quảng
Ninh). Sau cuộc hội quân thủy bộ tại
Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố gắng xây dựng vùng Vạn Kiếp và Thăng Long thành căn cứ
quân sự, chúng triệt hạ nhiều điền trang, thái ấp, tàn phá nhân dân, uy hiếp
triều đình. Đoán trước được âm mưu của quân Nguyên, Trần Hưng Đạo cho thực hiện
chính sách “Vườn không nhà trống” tại
kinh thành Thăng Long nên khi quân Nguyên kéo quân vào Thăng Long gặp khó khăn
về nguồn lương thực tại chỗ, mặt khác đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị
Phó tướng Trần Khánh Dư bố trí mai phục đánh tan tại Vân Đồn. Khiến quân Nguyên lâm
vào tình trạng khốn cùng phải quyết định chia làm hai đường thủy bộ rút quân về
nước.
Nắm
bắt ý đồ rút quân và phán đoán chính xác đường rút quân của địch, Trần Quốc
Tuấn tiến quân từ Vạn Kiếp đến cửa Sông Bạch Đằng chuẩn bị đánh chặn địch. Trên
đường hành quân được sự phối hợp của các đội dân binh địa phương chủ động phục
kích làm tiêu hao một phần sinh lực địch.
Thời
cơ đến, Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu kỹ lưỡng quy luật
thủy triều của sông Bạch Đằng và kế thừa cách đánh của Ngô Quyền và Lê
Hoàn trong kháng chiến chống quân Nam hán (938) và quân Tống (981). Trần Hưng
Đạo đã đưa ra thế trận cọc ngầm dưới lòng sông chuẩn
bị một trận địa cọc mai phục tại cửa sông Bạch Đằng. Các loại gỗ lim, gỗ táu
được nhân dân và tướng sỹ đốn trên rừng kéo về bờ sông, đẽo nhọn đầu bịt sắt
cắm xuống lòng sông ở các cửa dẫn ra biển như sông Rút, sông Chanh, sông Kênh, làm thành
những bãi chông ngầm lớn, kín đáo dưới mặt nước.
Sử dụng bờ lau, bãi sậy, núi đá ven sông làm nơi mai phục.
Mờ sáng ngày 09 tháng 4, khi nước thuỷ triều lên ngập các bãi cọc quân ta
cho thuyền nhỏ ra khiêu chiến, giả thua chạy nhử các thuyền chiến của địch tiến
sâu vào bãi cọc. Ô Mã Nhi trúng kế khích tướng nên thúc quân ra nghinh chiến,
các tướng Phàn Tiếp, Hoạch Phong cũng ra tiếp ứng. Khi các chiến thuyền của
quân Nguyên đã vào sâu bên trong các nhánh của sông Bạch Đằng. Trong lúc này
thủy quân của ta từ các ngả Hải Đông - Vân Trà, Điền Công, Gia Đước, sông Thái,
sông Giá nhanh chóng tiến ra sông Bạch Đằng với hàng trăm chiến thuyền cùng
quân lính các lộ dựa vào
Ghềnh Cốc tạo thành một dải thuyền chặn đầu thuyền địch ngang trên sông. Cùng lúc đó quân ta từ Tràng Kênh với cung tên, hỏa lực đánh áp từ phía
sau. Địch bị bất ngờ quay thuyền tháo chạy ra hướng của sông lúc này nước thủy triều
xuống trận địa cọc nhô lên khỏi mặt nước, thuyền địch đâm mạnh vào cọc bị vỡ,
mắc cạn, quân giặc phần bị tiêu diệt, phần bị bắt sống, tướng Ô Mã Nhi bị bắt
sống tại trận. Trong lúc thủy chiến đang diễn ra dữ dội thì đoàn chiến thuyền
của hai vua Trần đóng ở vùng Hiệp Môn (Hải Dương) bên bờ sông Kinh Thầy cũng
tấn công từ phía sau khiến quân Nguyên càng lúng túng và tổn thất nặng nề,
nhiều thuyền chiến của quân Nguyên bị cháy rụi. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư
ghi lại "nước sông do vậy
đỏ ngầu cả". Một số cánh quân
Nguyên bỏ thuyền chạy lên bờ sông tìm đường trốn thoát nhưng đều bị phục kích
chặn đánh kịch liệt. Trận Bạch Đằng lịch sử kết thúc, quân ta thắng lợi hoàn
toàn.
Lịch sử còn ghi lại khi chuẩn bị
cho cuộc đại chiến trên sông Bạch Đằng lần thứ ba. Trần Hưng Đạo đã lấy làng
Phú Lương xưa nay là Tổ dân phố Phú Xá làm nơi cất giữ kho lương thảo phục vụ
chiến đấu. Nhân dân địa phương với tinh thần yêu nước căm thù giặc, đặc biệt là
người con dâu họ Phạm làng Phú Lương – Bà Bùi Thị Từ Nhiên với tinh thần yêu nước
nồng nàn đã tự mình đem thóc gạo, vận động dân làng lập kho lương thảo giúp tướng
sĩ Nhà Trần. Do tướng sĩ phải chiến đấu trên sông nước nên việc mang theo lương thảo gặp khó khăn nên bà Bùi Thị Từ Nhiên cùng hương binh đã nghĩ cách làm bánh đa tráng
bằng bột chín để quân sỹ mang theo khi chiến đấu, khi đói không cần nướng, chỉ
nhúng vào nước là ăn được và đây là món lương khô góp phần vào Chiến thắng Bạch
Đằng năm 1288 chống giặc Mông Nguyên. Khi trận Bạch Đằng đại thắng Đại tướng
quân Trần Hưng Đạo cũng đã chọn nơi đây là nơi mở hội khao thưởng quân sĩ trước
khi kéo quân về Vạn Kiếp. Để ghi nhớ công sức giúp quân đội đánh thắng giặc
Nguyên, trước khi rút quân về Vạn Kiếp Hưng Đạo Vương đã cho phép nhân dân được
lập Đền thờ phụng Ngài khi qua đời và phong tặng cho Bà Bùi Thị Từ Nhiên là Nữ
tướng hậu cần.
Đức Thánh Trần Hưng Đạo sinh
năm 1223 mất năm 1300 tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước Hưng Đạo Đại Vương. Quê
làng Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ngài là nhà thiên tài quân sự, nhà chính
trị kiệt xuất, anh hùng dân tộc. Dưới sự chỉ huy tài tình của Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn. Một vị Thánh nhân có tài chí xuất chúng, ý
chí quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược, luôn mang trong mình một lòng yêu nước nồng
nàn, bằng tài năng và trí tuệ, văn võ song toàn, giữa sách lược với chiến
lược đạt tới một trình độ quân sự uyên bác, giữa ý chí với lực lượng. Là người có đạo đức trong sáng luôn nêu cao quyết tâm giữ
cho bằng được tình đoàn kết vì nghĩa lớn, góp phần đoàn kết toàn dân chống lại
kẻ thù. Trần Hưng Đạo đã làm nên những chiến công hiển hách cùng quân dân Đại
Việt đập tan hoàn toàn âm mưu xâm lược của giặc Mông Nguyên bảo vệ độc lập dân
tộc. Ngoài ra Ngài còn để lại cho hậu thế cả một sự nghiệp văn chương đồ sộ với
những tác phẩm truyền đời như: “Hịch tướng
sĩ”, “Binh thư yếu lược” và tác phẩm “
Vạn Kiếp tông bí truyền thư” ...
Tháng Sáu (âm lịch)
năm Mậu Tý (1300), Ngài lâm bệnh. Trước khi qua đời ông đă dặn lại
vua Trần "Khoan
thư sức dân là kế sâu gốc, bền rễ, đó là thượng sách giữ nước". Ngày 20 tháng Tám (âm lịch) năm ấy Ngài đã
Hóa Thánh. Được Vua Trần tấn phong: Thái
Sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Võ Hưng Đạo Đại Vương. Nhân dân tôn
Ngài là “Trần Triều Hiển Thánh” và lập đền thờ trang
nghiêm, tố hảo ở rất nhiều nơi. Để tưởng nhớ công đức
của Đức Thánh Trần sau khi ngài mất dân làng Phú Lương đã lập đền thờ. Từ đó việc
phụng thờ Đức Thánh Trần, cùng toàn gia nhà Trần và Nữ tướng Bùi Thị Từ Nhiên
được nhân dân địa phương gìn giữ từ hàng trăm năm nay.
Phường
Đông Hải 1 vinh dự là nơi có 2 dấu tích của chiến trận Bạch Đằng năm xưa đó là:
Đền Phú Xá là nơi lưu giữ lương thảo và Chùa Vẽ là nơi kẻ vẽ bản đồ, bàn luận kế
sách của quân sỹ nhà Trần.
Đền Phú
Xá được xây dựng lại từ thời Tự Đức toạ lạc trên một thửa đất cao dáo Đền quay về
hướng Đông, hướng ra cửa sông Bạch Đằng. Ban đầu là một ngôi đền nhỏ bằng tranh
tre, trải qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo ngày nay đã trở thành một công trình bề
thế. Bố trí theo kiểu nội công ngoại quốc gồm 5 gian tiền đường, nhà thiêu
hương, giải vũ, nhà đệ nhị và hậu cung. Với chất liệu bằng gỗ, hệ thống trạm khắc,
đắp vẽ hoa văn nghệ thuật tinh xảo, nhuần nhuyễn mang phong cách nghệ thuật thời
Nguyễn. Đền còn lưu giữ được nhiều tượng pháp, cổ vật, đồ gốm có giá trị cao về
mỹ thuật và nghệ thuật điêu khắc có niên đại thế kỷ 17, 18, 19 góp phần tạo nên
giá trị của di tích.
Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc ngôi
Đền là căn cứ của các đồng chí hoạt động cách mạng, xây dựng lực lượng và tuyên
truyền phát động đấu tranh. Là nơi cất giữ vũ khí, khí tài đạn dược, quân trang
để trung chuyển cho chiến trường Miền Nam.
Hàng năm, cứ vào ngày 20 tháng 8 và ngày 05 tháng 03 âm lịch. Đảng bộ,
Chính quyền phường Đông Hải 1, Tiểu ban quản lý di tích và nhân dân địa phương
lại long trọng tổ chức lễ hội truyền thống để ôn lại Chiến thắng Bạch Đằng lịch
sử năm 1288, dâng hương tưởng niệm công lao to lớn của Đức Thánh Trần và Nữ tướng
quân lương Bùi Thị Từ Nhiên với các hoạt động tế lễ trang nghiêm, trọng thể và các
hoạt động tín ngưỡng dân gian mang đậm giá trị văn hóa như: hát văn thờ, diễn
xướng chầu văn, hầu Đức Thánh Trần, hát chèo và các trò chơi dân gian thu hút
đông đảo nhân dân, du khách thập phương về dâng hương, thăm quan chiêm bái nguyện
cầu cho quốc thái dân an, dân khang vật thịnh.
Với ý nghĩa to lớn trong giáo dục truyền thống và lưu giữ những nét
văn hoá nghệ thuật kiến trúc đặc sắc Đền Phú Xá đã được Bộ Văn hóa Thông tin nay
là Bộ Văn hóa Thể Thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc
gia theo Quyết định số 1288 – VH/QĐ ngày 16/11/1988. Là một trong “ Tứ linh từ”
linh thiêng của huyện cổ An Dương xưa. Hiện nay, là một trong 7 di tích trên địa
bàn phường tạo thành một quần thể di tích có giá trị to lớn trong đời sống tâm
linh và là kho tàng lịch sử sống động trong đời sống tinh thần, văn hoá của
nhân dân.